Một cuộc nói chuyện TEDx năm 2010 báo trước một số dự án trong tương lai của nhà văn kiêm đạo diễn bao gồm bộ phim đoạt giải Oscar Jojo Rabbit. Giống như nhiều người trong số các bạn, tôi rất vui mừng khi Jojo Rabbit đã giành được Giải Oscar cho Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất. Vậy thì phải "vận dụng sáng tạo như thế nào?" Nhà tuyên giáo cũng không cần phải bóp trán suy nghĩ. Ngài tuôn ra một hơi, thông hơn nước chảy trong ống cống: "Vấn đề nằm ở chữ "sáng tạo" ấy. Bác Hồ của chúng ta chỉ nói chống giặc, ta sáng tạo thành chống Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp quỳ gối dâng nước ta cho phát xít Nhật, dân ta một cổ hai tròng. tổng hợp và phát triển lên trình độ cao những truyền thống cách mạng và năng lực sáng tạo của Đảng ta, dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975 Nghe Audio Kiếm Điểm. Đi qua mấy ngàn năm phát triển, nhân tộc bước vào thời đại vũ trụ, đưa thân vạn tộc hàng ngũ ở trong. Theo trình độ khoa học kỹ thuật từ đầu đến cuối không cách nào lấy được đột phá tính phát triển, tại vạn tộc tranh phong bên trong, nhân tộc dần dần từ công chuyển phòng thủ, khốn thủ hệ ngân hà. Khi chúng ta được hưởng lợi từ quá trình sang tạo, chúng ta thường ngủ quên trong chiến thắng mà không nghĩ rằng, sáng tạo là một quá trình đổi mới liên tục. Cho đến nay vẫn không có phương pháp vạn năng nào để khơi dậy khả năng tư duy và các tiềm năng khổng lồ . 【 tiếng Trung võng A cấp ký hợp đồng tác phẩm Ta, sáng tạo vạn giới 】 từng thân thủ bồi dưỡng Atlantis huy hoàng, cũng từng dưỡng một con miêu huỷ diệt cái này vĩ đại văn tận mắt nhìn thấy Trùng tộc hùng bá thiên địa, cũng từng nhìn chúng nó tự chịu diệt từng bồi dưỡng quá chư thần, cũng từng phát động quá chư thần hoàng sáng tạo một đám thế giới, cũng huỷ diệt một đám thế giới……Ta là Chúa sáng thế, cũng là hủy diệt cái bình thường thất nghiệp thanh niên, trong lúc vô tình được đến một bức liên thông không gian hai chiều thần bí bức hoạ cuộn tròn, não động mở rộng ra dưới, đem này không gian hai chiều đi bước một xây dựng phát triển, cuối cùng sáng tạo ra chư thiên vạn giới. bổn chuyện xưa cập nhân vật chỉ do hư cấu, như có tương đồng, chỉ do trùng hợp, chớ bắt chước. CẦU VOTE 10*, CẦU LIKE + CẦU THÊM ĐÁNH GIÁ 10Đ CUỐI CHƯƠNG!!! THANKS MỌI NGƯỜI NHIỀU Những mức buff10 Np = 1 chương1 Kim Đậu=2 chương1 Hỏa Tinh Châu=1 chương1 Thất Thải Châu=2 chương1 Kim Sa Châu=3 chương1 Bố Cáo Lệnh=10 chương Ở Trung Quốc, những tìm tòi về cội nguồn, sự tạo dựng và vận hành của giới tự nhiên đầu tiên xuất hiện vào giữa thế kỷ 4 và thế kỷ 2 TCN. Đó là thời kỳ mà các khái niệm quan trọng được xây dựng làm nền tảng cho triết học tự nhiên, vật lý học và vũ trụ học đáng kinh ngạc. eVăn Hoài Nam Tử, cùng với Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh, là những bộ sách quan trọng của Đạo giáo Trung Quốc, nhưng Hoài Nam Tử lại không được nhiều người biết đến. Một phần có lẽ bởi ngôn ngữ của Hoài Nam Tử được xem là khó hiểu - một hình thức ẩn dụ về quá trình hình thành của các thực thể từ khối hỗn mang nguyên thủy. Tuy vậy, nếu đứng từ điểm nhìn của khoa học hiện nay, Hoài Nam Tử có nhiều điểm tương đồng với các quan niệm về triết học tự nhiên của các triết gia Hy La cùng thời. - Thời kỳ này, được đánh dấu bởi một kho tàng văn minh vật chất và tinh thần rực rỡ chưa từng có trước đó, không phải là không có nét tương hợp với lịch sử Hy La ở chỗ, một mặt, vào thời Chiến Quốc - còn gọi là thời đại Trăm nhà -, các trào lưu tư tưởng lớn được hình thành, định hướng cho sự phát triển tinh thần của các nước có nền văn hóa Hán, mặt khác, đế chế Tần, Hán sau này đã củng cố những thành quả của thời đại trước, thực hiện sự thống nhất về chính trị và văn hóa đất nước bằng cách xây dựng một hệ tôn giáo chính thống trên cơ sở của đạo Khổng. Đối với chúng ta, điều đáng nói là những tìm tòi về vũ trụ xuất hiện khá muộn trong sự phản ánh của triết học, sau các tác phẩm nền tảng của tư tưởng Trung Quốc gần hai thế kỷ. Sách “Luận ngữ” nói rằng nguyên tắc của người quân tử là hạn chế đề cập nhiều các vấn đề có liên quan đến giới tự nhiên và quỷ thần. Ngày nay người ta cho rằng tư tưởng về vũ trụ của Trung Quốc đã trở nên khá phổ biến với những phát triển đầu tiên của nó trong số các nhà - mà những người sưu tập đời Hán gọi là các kỹ thuật gia để đối lập với các tư tưởng gia bốc sư, nhạc sư, nhà thiên văn, nhà địa lý, thầy thuốc, người chủ tế. Họ hợp thành một bộ phận quan trọng trong đời sống của giới vương giả. Những hoạt động và hiểu biết của họ đã khá quen thuộc qua các giai thoại và liệt truyện rải rác trong các biên niên sử viết về giới vương tôn, và thời Chiến Quốc. Trước hết, bản văn, mà chúng ta sẽ khảo cứu, thực chất là xuất xứ từ một tác phẩm được cóp nhặt bởi những người thân cận của các bậc vương hầu vào đầu thời Hán thế kỷ 2 TCN sách Hoài Nam Tử. Nó gồm 21 chương bàn đến các vấn đề như vũ trụ học, thiên văn học, tâm lý học, thuật cai trị, thuật trường sinh, địa lý học, lịch pháp và nghệ thuật quân sự. Mặc dù, theo cách nào đó, vẫn còn khá gần với lối tư duy của các nhà kỹ thuật nhưng tác phẩm mang đậm màu sắc Đạo gia và đầy tính tư biện. Bên cạnh các tác phẩm của Lão Tử và Trang Tử, nó trở thành bộ kinh quan trọng của Đạo giáo. Vấn đề sáng tạo vũ trụ được trình bày trong tác phẩm như một thể văn có cấu trúc chặt, một hình thức dụ ngôn về quá trình dắt díu nhau của các thực thể phát xuất từ khối hỗn mang nguyên thủy. Có khoảng năm chương được bắt đầu bởi sự quan hệ về nguồn gốc thế giới, cùng những biến thể không đáng kể của chủ đề được đề cập trong từng chương. Chúng tôi ghi nhận chủ đề chương ba “Thiên văn tuần” Tianwen xun. Điều đáng nói là thiên luận thiên văn mang một nghĩa khá rộng vì ở đấy, họ người Trung Quốc cổ xưa - ND cũng bàn đến vũ trụ, thuật làm đồng hồ, tính hài hòa, sự vận động của các hành tinh và các chu kỳ lịch pháp. Chương này cùng với Chu bề toán kinh thế kỷ 1 TCN và các thiên luận thiên văn, lịch pháp trong sách Sử ký thế kỷ 2 TCN, Hán thư thế kỷ 1 TCN hợp thành bộ bản văn xưa cũ nhất cho ta hiểu biết về thiên văn học, vũ trụ học và lịch pháp Trung Quốc. Đây là phần đầu của tác phẩm; khởi từ nguồn gốc, đưa đến sự xuất hiện của muôn vật “Vì trời đất còn chưa thành hình, nên tất cả đều thấp thoáng, tối mờ, sâu thẳm, không thể phân biệt được, ấy gọi là đại khởi. Đạo bắt đầu từ khoảng không mênh mông. Khoảng không này sinh ra không gian và thời gian; không gian và thời gian sinh ra khí. Khí có nhiều dạng. Khí nhẹ và trong thanh lọc thành trời; khí nặng và thô ngưng tụ thành đất. Quá trình tập trung của khí nhẹ và trong diễn ra dễ dàng; quá trình ngưng tụ của khí nặng và thô thì khó khăn. Do đó trời được hình thành trước đất. Thể tính dẫn xuất từ trời đất tạo thành Âm, Dương. Thể tính tập trung từ Âm Dương tạo nên bốn mùa. Thể tính phân tán của bốn mùa tạo nên vạn vật.”... Chúng tôi đã chia bản văn trên thành bảy đoạn, đánh dấu những thời kỳ khác nhau của tiến trình vũ trụ. Có ba thời kỳ Thời kỳ tiền vũ trụ, với nghĩa nó có trước sự hình thành của trời đất. Ngôn ngữ sử dụng để mô tả trạng thái nguyên thủy này gợi ra ý niệm về cái mập mờ, nhập nhằng và không hình trạng. Đó là thời kỳ hỗn mang nguyên thủy, hay như người Trung Quốc gọi là Hỗn Độn. Thế nào là Hỗn Độn? “Gọi là Hỗn Độn, tức là nói vạn vật quyện thành một thể không tách rời”. 1 Tiếp theo, Đạo và khoảng không xuất hiện như những dữ kiện ban đầu, không có mối liên hệ nhân quả với khối hỗn mang. Như vậy có ba khái niệm 1 Hỗn Độn, mang trong nó khả năng tính của thế giới; 2 Đạo, nguyên lý trật tự, điều khiển tiến trình tự nhiên, thâm nhập vào thời kỳ ấy với tư cách là cội nguồn đầu tiên; 3 Khoảng không, nơi mà từ đó các yếu tố khác của hiện thực được cấu lập. Thời kỳ tiếp theo, có thể gọi là khâu trung gian giữa hai khoảng thời gian trước và sau khi trời đất hình thành. Ở thời kỳ này, khoảng không vận động thành không gian và thời gian. Sự chuyển hóa của khoảng không thành vũ trụ, sinh ra khí. Khí, năng lực sống hay bản thể đầu tiên, mặc dù vẫn còn chưa có sự dị hóa, mang trong nó khả năng tính về sự triển nở trong tương lai. Cuối cùng là thời kỳ vũ trụ gồm hai giai đoạn. Một là trời đất được hình thành bởi quá trình phân hóa của nguyên khí và ngưng tụ của các yếu tố tinh, thô; quá trình này xảy ra cùng với quá trình phát triển của Âm Dương theo bình diện nội tại, nghĩa là theo bình diện của tính năng động ngầm ẩn trong giới tự nhiên và trong dòng chuyển hóa của sự vật, hiện tượng. Bằng cách nhấn mạnh tính có trước của trời trong mối quan hệ với đất, các tác giả đã đặt ra nguyên lý về cái siêu việt tính của vũ trụ tối cao. Ta cũng nên lưu ý cách dùng từ “Tạo” constituer thay từ “Sinh” engendrer, ở giai đoạn kể trên, muốn nói tới tính vận động liên tục của tiến trình. Hai là, các hiện tượng tự hiện bày do quá trình ngưng tĩnh của tính năng động của thế giới dưới hình thức chu kỳ bốn mùa. Đến lượt mình, chu kỳ bảo đảm sự hình thành của vạn vật. Khái niệm bốn mùa, tưởng như vô nghĩa nhưng chiếm một vị trí quan trọng trong vũ trụ học và vật lý học Trung Quốc. Chu kỳ mùa, và các chu kỳ thiên nhiên trong tổng thể của chúng, đóng vai trò là “cái đai truyền” giữa bình diện nội tại tính, tức bình diện Đạo, và cơ chế điều khiển sự chuyển hóa, một phần, của Âm Dương, phần khác, của vạn vật trong thế giới. Rất có thể chúng hợp thành giai đoạn cuối của sáng tạo vũ trụ, tức giai đoạn ngưng tĩnh của những trạng thái biến đổi. Sự ngưng tĩnh, đến lượt nó, làm điều kiện cho sự sống xuất hiện. Kết quả là thực thể chỉ có tính hiện thực ở phạm vi bó gọn của chu kỳ mà hình thái của nó được biểu hiện qua sự diễn biến của mùa. Do đó các phạm trù phân loại tính tương liên vũ trụ học vận động xoay quanh hệ biến thái mùa. Như vậy, ở Trung Quốc, thiên văn học có thể được xem như một ngành nhánh và phái sinh từ ngành mà ngày nay chúng ta gọi là Sinh thái biên niên Chronobiologie. * Các quan niệm vũ trụ của người Trung Quốc, lý luận về con đường từ hỗn mang đến vũ trụ chẳng hạn, đã thu hút sự chú ý của nhiều chuyên gia. Thời gian gần đây, có khoảng bốn bản dịch bản văn kể trên xuất hiện trong các sách Anh, Pháp2. Nhiều cách giải thích khác nhau về bản văn được đưa ra – một số trên cùng lĩnh vực tư tưởng, số khác trong điểm nhìn hơn là trong so sánh. Chẳng hạn, người ta nhận thấy ở đó tính dự báo, tính trực giác triết học của các mô hình và giả thuyết đã được phát triển bởi các nhà vật lý và vũ trụ học hiện đại. Nó không thuộc quyền quyết định của tôi dù cho bản văn vừa khảo xét trên thực tế có phù hợp với những so sánh như vậy. Trong mọi trường hợp, nó đều biểu hiện những/một số đặc tính singularité đáng chú ý. Đặc tính của các khái niệm như Đạo, Âm Dương, Khí, Không gian và Thời gian, Kinh chỉ tương hợp một cách tương đối gần với lối tư duy triết học của chúng ta tức triết học phương Tây - ND. Nó không ám chỉ đến một trí năng siêu việt điều hành thế giới, tức đấng sáng tạo. Đặc tính của thứ bậc tương ứng với các chu kỳ của giới tự nhiên với tư cách là những tác nhân bên ngoài của tính ổn định về cấu trúc thế giới và những nguyên tắc điều hòa tính sinh diệt của vạn vật. Đặc tính của bản thân tiến trình của nguồn gốc vũ trụ luận ý tưởng về sự tạo dựng không gian và thời gian như thời kỳ đầu đối với quá trình phát triển của sáng tạo; các khái niệm phân hóa, quảng diễn, hội tụ, ngưng kết và biến hóa tự động điều hành các năng lực vũ trụ. Cuối cùng là sự biểu hiện trong mỗi giai đoạn của hai yếu tố Hỗn mang và Đạo, Không-Thời gian và Khí, Trời đất và Âm-Dương, Vạn vật và Chu kỳ thiên nhiên. Hiểu, đánh giá và làm sáng tỏ các đặc tính này đòi hỏi trước hết là phải đặt chúng trong toàn bộ bối cảnh của triết học mà nó là kết quả chung cục, tức giữa các trường phái đã phát triển nó và giữa các cuộc tranh biện mà nó gây ra. Trên thực tế, tất cả thuật ngữ được nêu trong phần sáng tạo luận của sách Hoài Nam Tử đã trở thành bộ phận các khái niệm sơ đẳng nhất, mà cũng nền tảng nhất, của vật lý học và vũ trụ học Trung Quốc. Chẳng hạn, khuynh hướng duy cơ cấu, theo cách nói của Joseps Needham, của vật lý Trung Quốc, tức ý tưởng cho rằng thế giới là một sinh thể corps vivant chắc chắn có mối liên hệ với tính ưu trội trong nó về vấn đề sáng tạo vũ trụ3. Nhìn từ góc độ này, và trong giới hạn mà tiến trình của nguồn gốc vũ trụ kết thúc ở giai đoạn vạn vật xuất hiện, thì các loại nguồn gốc thuộc lý luận chung về tiến hóa trong đó các dạng nhất thời của sự hình thành thế giới không phân biệt với dạng xuất hiện của sự sống. Cũng cần phải đối chiếu đặc tính này với quan niệm triết học và vũ trụ của chúng ta. Chẳng hạn, trong vật lý, mô hình duy cơ cấu được các nhà triết học tiền đế chế và thời Hán xây dựng không phải là không có nét tương đồng với Hy Lạp cùng thời. Ở đây tôi muốn nói đến vật lý học của phái khắc kỷ mà Sambursky, trong một tác phẩm đã trở thành kinh điển classique, đã chỉ ra sự đóng góp của nó cho sự hình thành khoa học hiện đại. Một đối chiếu nhất định, ít ra nó phải được trưng dẫn một cách nghiêm túc, có thể làm xuất hiện một số đặc tính khác, có thể tuy chưa thật cụ thể nhưng đều thỏa đáng. Chẳng hạn như trường hợp vấn đề tính nhân quả - tâm điểm trong bối cảnh Hy Lạp - không gây sự chú ý của các nhà vũ trụ học và vật lý học Trung Quốc thuộc giai đoạn chúng ta quan tâm. Nó không còn là vấn đề về nguyên nhân tối hậu cause finale, tức Thượng đế, mà là nguyên nhân thứ sinh cause seconde. Theo đó những người phái khắc kỷ, cũng như phái Aristote trước đó, đã đưa ra các giải pháp nâng cao mặt logic hơn là mặt vật lý theo đúng nghĩa của nó. Thật ra, tính đặc thù của Trung Quốc có thể ở chỗ không đi tìm giải pháp ở đâu khác ngoài giới tự nhiên; lẫn giới siêu nhiên tiên nghiệm đã từng dẫn dắt tư tưởng phương Tây trên lộ trình thần học và hữu thể học; và cả những quy luật chi phối tinh thần con người, nói khác là cả logic. Mặc dù thuật ngữ không thuộc hệ thống khái niệm của Trung Quốc, nhưng có thể nói, một phần, đến tính nhân quả nội tại theo nghĩa tính sản sinh tự nhiên gắn liền với năng lực điều hành của Đạo; phần khác, năng lực điều hành đó biểu lộ sự có mặt của mình trong thế giới, thông qua khâu trung gian của các chu kỳ tự nhiên. Các chu kỳ này tạo nên cái mà ta có thể gọi là nguyên nhân bề ngoài của sự vật với nghĩa là tiêu chuẩn xác định quá trình sinh thành và nấc thang các trạng thái hiện tồn trong tự nhiên. Điều thú vị là, ở Trung Quốc, một số sự quan tâm thuận cho vấn đề tính nhân quả đối lập với tầm quan trọng của suy tư về nguồn gốc vũ trụ trong cổ văn mặc dùø vấn đề nguyên nhân cuối cùng của thực tại và của sự chuyển hóa dứt khoát tìm được ngay từ lúc cách giải quyết vấn đề nguồn gốc thế giới và sự phát triển của thực tại trong thời gian đã được đưa ra. Hơn nữa, cần chú ý là các bản văn Trung Quốc luôn không phân biệt một cách rõ ràng giữa sáng tạo và cấu thể vũ trụ. Quá trình quy căn đồng nghĩa với sự lĩnh hội các nguyên lý, trong nấc thang nội tại tính, điều khiển sự vận động và sắp đặt cách phân bố hợp lý các thực thể trong tự nhiên. Cuối cùng cần phải đặt vấn đề sáng tạo vũ trụ trong Hoài Nam Tử vào bối cảnh sáng sủa hơn của phái Đạo gia thời tiền đế chế. Tầm vóc của Đạo với tư cách là cội nguồn sự vật, “có trước trời đất”, đã được thể hiện trong sách Lão Tử. Tuy nhiên, việc đặt điểm nhìn về tiến trình hình thành thế giới trong khuôn khổ vũ trụ học mô tả dường như không là ý định của các tác giả các đoạn văn đầy chất thơ trong tác phẩm. Sách Lão Tử chỉ có một công thức duy nhất, khá đơn giản, về sự triển khai của thực tại “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”4. Khi phân tích vấn đề này trong chương 2 sách Hoài Nam Tử, Charles Le Blanc đã vạch rõ sự nhập cuộc của suy tư vũ trụ học trong vùng chú giải những luận thuyết được trình bày trong sách Trang Tử. Mặt khác, trong phái Đạo gia, vấn đề nguồn gốc quyện chặt với ý tưởng toàn bích được xét như sự trở về nơi sinh của các thực thể và tính sản sinh năng động của giới tự nhiên. Ở đó nguồn gốc vũ trụ luận tìm được chỗ đứng của nó với tư cách là điểm mốc trên con đường nhận thức về quá trình hiện thực hóa của Đạo. Chính tính chất liên tục với các bản văn đầu tiên của phái Đạo gia đó cung cấp dáng vóc dụ ngôn, có tính thần bí, cho luận thuyết sáng tạo vũ trụ trong sách Hoài Nam Tử5. Đinh Hồng Phúc dịch Nguồn L’homme 137, janv-mars, 1996Đã giới thiệu trên TT. Nghiên cứu Triết học & Chính trị học, Viện KHXH, TP HCM - Chú thích 1 Liezi, chap. “Des heureux présage” Tianrui, éd. du Xin zhuzi jichen, Taipei, Shijie shuju, 1978 2. 2 GRAHAM 1989 332, MATHIEU 1992 70-71, ROY 1992 54-55 traduction partielle, MAJOR 1993 62. 3 NEEDHAM 1956 281, 291-292, 496-505. 4 Đạo đức kinh, 42 5 Tất cả bài này được trích dịch từ L’homme 137, janv-mars, 1996_ND. - Ghi chú của eVăn Theo Bách khoa thư văn hoá cổ điển Trung Quốc Nxb. VHTT, IV/2002 của Nguyễn Tôn Nhan, 170 và 246 thì Hoài Nam Tử là một tác phẩm tạp gia do Hoài Nam Tử Lưu An cháu của Hán Cao tổ Lưu Bang và các môn khách cùng biên sọan vào đời Tây Hán tk 2 TCN. Sách vốn có tên Hoài Nam Hồng Liệt; sau đó Lưu Hướng tk 2 TCN hiệu đính gọi là Hoài Nam. Tên Hoài Nam Tử xuất hiện đầu tiên tại phần “Kinh tịch chí” sách Tùy thư. “Nghệ văn chí” sách Hán thư ghi Hoài Nam Tử có 2 phần Nội thiên gồm 21 thiên, Ngoại thiên gồm 33 thiên. Nội thiên luận về Đạo hiện chỉ còn lưu hành phần Nội thiên này. Sách được chú giải nhiều lần, hiện có bản Hoài Nam Hồng Liệt tập thích của Lưu Văn Điển được xem là đáng tin cậy hơn giả Marc Kalinowski, sinh năm 1946, tốt nghiệp trường ĐH Paris VII ngành tiếng Trung Quốc năm 1973. Là thành viên Viện Viễn đông Bác cổ của Pháp EFEO từ 1979 đến 1993. Chuyên nghiên cứu vũ trụ luận truyền thống và Khổng giáo, lịch sử ngành thiên văn và lịch học của Trung Hoa cổ và trung đại, lịch sử thuật bói toán và các hệ thống biểu tượng trong tôn giáo và tư tưởng Trung Hoa. "Từ ban đầu Thiên Chúa sáng tạo trời và đất" St 1,1 "Mọi âu lo, trút cả cho Người vì Người chăm sóc anh em" 1Pr 5, 7 Trong Kinh Tin Kính, ta tuyên xưng điều gì về Thiên Chúa sáng tạo? T. Ta tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời và đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Thiên Chúa đã sáng tạo muôn vật cách nào? T. Thiên Chúa đã dùng Lời quyền năng của Người mà sáng tạo mọi sự từ hư không. Chỉ một mình Thiên Chúa mới làm được như vậy. Thế giới hữu hình là gì? T. Là mọi loài thụ tạo mà ta thấy được, trong đó con người là chóp đỉnh. Tất cả những gì Thiên Chúa đã sáng tạo đều tốt đẹp và có liên hệ mật thiết với nhau. St 1,31. Thụ tạo vô hình là loài nào? T. Là các thụ tạo thiêng liêng không có thể xác, gọi là thiên thần. Các ngài được tạo dựng để phụng sự Thiên Chúa và giúp đỡ loài người. Vì sao Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật? T. Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật để biểu lộ và thông ban vinh quang của Người. Thiên Chúa có chăm sóc những loài Chúa đã sáng tạo không? T. Thiên Chúa vẫn tiếp tục chăm sóc và hướng dẫn mọi loài thụ tạo, để vũ trụ tiến dần đến mức hoàn hảo như Chúa muốn. Đó là sự quan phòng. Ta phải hiểu thế nào về sự dữ ở trần gian này? T. Niềm tin Kitô-giáo giúp ta hiểu rằng Một là Thiên Chúa không tạo nên sự dữ. Người sáng tạo vạn vật tốt lành nhưng chưa hoàn hảo. Hai là con người đã lạm dụng tự do Thiên Chúa ban, nên đã gây đau khổ. Ba là Thiên Chúa có thể rút ra sự tốt lành từ chính điều dữ, theo những đường lối mà ta chỉ biết được cách đầy đủ trong cuộc sống đời sau. Thiên Chúa dùng cách đặc biệt nào để làm sáng tỏ mầu nhiệm sự dữ và đau khổ? T. Thiên Chúa làm sáng tỏ mầu nhiệm sự dữ và đau khổ cách đặc biệt nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Ta phải có thái độ nào đối với Đấng Sáng Tạo? T. Ta phải luôn sống tâm tình con thảo, yêu mến, tôn thờ, phó thác vào Người và cùng với mọi người bảo vệ, phát triển thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Giải thích sơ lượtHữu hình là hình thể chúng ta có thể nhìn thấy được / Dân Do Thái đúc bò vàng để thờ dưới chân núi Sinai / vì họ bị lây nhiễm thói thờ ngẫu tượng của dân Ai Cập nên không thể thờ một Thiên Chúa vô hình / họ bèn đúc một con bò vàng và ra sức thờ lạy như là Thiên Chúa của họ. => Con người là một kỳ công của Thiên Chúa, là một bản thể kỳ diệu, có hồn thiêng bất tử / có xác chất mau qua / Con người là một vũ trụ thu nhỏ đầy sức sống. Có sinh sống, có phát triển như cây cỏ thực vật. Có di động, có cảm giác như loài thú động vật. Có trí khôn nhận biết chân lý và lòng ước muốn điều thiện hảo như các Thiên thần Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa./có thể trở nên con cái Chúa / => Thiên thần là loài thụ tạo thiêng liêng, luôn chầu chực, thờ phượng, thi hành lệnh Chúa và giúp đỡ con người!các Ngài mãi mãi là tôi tớ Thiên Chúa . => Ma quỷ là Thiên thần dữ bị phạt, nó luôn dối trá, nói mà không làm, là thành phần không tuân lệnh Chúa nên bị phạt ở Hỏa ngục, cho nên nó rất thù ghét con người. Đúc kếtMỗi người hãy sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa /vì chúng ta từ một thụ tạo thấp hèn ,Thiên Chúa đã nâng chúng ta lên cao hơn các Thiên thần / Thiên Chúa phạt con người là phạt thương,vì thương nên mới phạt . Chúa Yêsu đã thánh hóa đau khổ để cứu độ chúng ta / hãy nhẫn nại chịu đau khổ để lập công phúc vì không ai có thể trốn tránh đau khổ được Nhóm Kính Thánh Emmaus Được đến một khoản não động càng lớn, hệ thống càng cường hệ thống, Triệu Dương tỏ vẻ chính mình hoàn toàn không có vấn đề. Hoa đán nổi tiếng đóng phim vô ý rơi xuống huyền nhai, được đến kỳ ngộ, mười ngày sau, đạp không mà đi. Từ nay về sau toàn cầu linh khí sống lại, khoa học kỹ thuật thế giới đi lên tu luyện thời đại? Một cái thế giới quá tiểu, vậy sáng tạo chư thiên vạn giới, mọi người nhận tri, hiểu biết hết thảy, hết thảy đều là Triệu Dương sáng tạo ra tới, đứng ở đỉnh đại đế tự cho là hiểu biết trong thiên địa hết thảy, không nghĩ tới, Triệu Dương nhất niệm chi gian có thể sửa đổi hết thảy. Thể loại Nguyên sang, Nam sinh, Hiện đại , OE , Khoa học viễn tưởng , Tinh tế , Nhẹ nhàng , Thị giác nam chủ , Xây dựng Mọi người đọc mà thấy tên người hoặc địa danh chưa viết hoa hoặc chưa edit thì bình luận để mk sửa nha ☺️☺️☺️ Chúng ta hành trình chưa bao giờ là địa cầu, mà là biển sao trời mênh mông. Thả xem một phiên phiên thiếu niên như thế nào ở mênh mang vũ trụ trung vấn đỉnh chí tôn.【 tóm tắt vô lực, thỉnh xem chính văn, bổn văn có dị năng có khoa học viễn tưởng, có hành trình, không phải không có não 】

ta sáng tạo vạn giới